Trong hệ thống thần linh Tứ phủ, Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình là vị đứng hàng trên Tam tòa Thánh Mẫu. Bài viết dưới đây của đá mỹ nghệ Ngọc Bích xin giới thiệu chi tiết về lịch sử Vua Cha Bát Hải, đền thờ chính cũng như lễ hội của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình.
Đền vua cha bát hải thái bình ở đâu
Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ chính tại Đền Đồng Bằng – Khu du lịch tâm linh Đền Đồng Bằng. Hiện ngôi đền tọa lạc tại mảnh đất thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay chính là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. – đây một trong những phòng tuyến quân sự cực quan trọng của nhà Trần thế kỷ XIII.. Đền còn lưu giữ bức đại tự của vua Lê Thánh Tông ban tặng: “Đế Đức Quảng Vận”, nghĩa là “Thay vua điều hành đất nước”. Theo truyền thuyết “…Vĩnh Công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân…” – đó chính là Quan Điều Thất.
Theo “Hán tự cổ sự tích Bát Hải Động Đình” hiện lưu giữ tại Viện Thông tin – Khoa học, Xã hội Việt Nam và các nguồn khảo luận, truyền thuyết về Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình chỉ có ở đền Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Truyền thuyết này cùng với truyền ngôn dân gian cho rằng nhà nước tập quyền phong kiến sơ khai Lạc Việt xuất hiện ở Đào Hoa Trang bên Động Đình Hồ (biển Đông ngày nay). Bằng chứng về nhà nước phong kiến cổ xưa của Lạc Việt ngoài đền vua cha Bát Hải Động Đình là đền Quan Điều Thất (nguyên bản chữ Hán là Điều Thất linh từ nguyên tự cổ).
Đền Đồng Bằng là ngôi đền rất cổ có đến 4000 năm tuổi là nơi thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình.
( Ngoài ra, tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy cũng có đền Vua Cha Bát Hải. Tại Phủ Vân Cát – Phủ Dầy cũng có một đền nhỏ thờ Vua Cha Bát Hải….Một số ngôi đền khác Vua Cha Bát Hải Động Đình cũng được phối thờ.)
Xem Thêm: Văn khấn đền Vua Cha Bát Hải
Sự tích Vua Cha Bát Hải
Vua Cha Bát Hải hay còn gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình, là vị vua chính của Thủy Phủ, đại bản doanh của ông nằm ở bờ biển phía đông nước ta tại Động Đình Hồ chứ không phải ở đầm Vân Mộng bên Trung Quốc. Theo truyền thuyết, ông là cha của Thánh Mẫu Xích Lân Long Nữ, tức là ông cha vợ của thủy tổ Bách Việt Kinh Dương Vương (Kinh Xuyên).
Tương truyền vào thời Hùng Vương thứ 18, khi giặc ngoại xâm xâm lược đất nước, triều đình đã huy động binh tướng giỏi đi đánh giặc. Thế nhưng thế lực quân địch mạnh, Quân đội triều đình không thể chống lại được, vì vậy họ phải tụ họp để triệu tập Linh Sơn Tú Khí để giúp đánh bại kẻ thù. Long Cung Hoàng Thái Tử (tức Giao Long – con Lạc Long Quân và thiếp là Ngọc Nữ) đầu thai vào một gia đình ở Trang Hoa Đào, đất Việt (nay là xã An Lễ, Quỳnh Phụ) phò Vua đánh giặc. Ngài cùng hai người em, 10 tướng (quan lớn Thượng, quan Đệ tam, quan Đệ tứ, Quan Điều Thất,… (Ông Hoàng Mười), quân sư quê ở Nuồi (Huyện Tứ Kỳ, Hải Dương), 28 nội tướng lĩnh và binh lính. Chỉ trong 3 ngày, ông đã đánh tan quân địch ở 8 cảng Tây Nam. Đất nước thanh bình, ông được phong làm “Trấn Tây An Nam Tam Kỳ Linh Ứng – Vĩnh Công Đại Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Sau đó, ông xin về quê phụng dưỡng mẹ, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, giúp vua Hùng duy trì cửa biển Lạc Việt.
Ngày 25 tháng 8 âm lịch, năm Bính Dần, Vĩnh Công thác về trời. Để tưởng nhớ công ơn của ông, nhân dân trong vùng đã tôn vinh ông là “Vua Cha – Bát Hải Đại Vương”, coi ông là bậc anh cả của dân tộc. Vua Hùng bằng lòng, cho sửa cung Vĩnh Công làm miếu thờ Vĩnh Công đời đời. Từ đó, đến ngày giỗ của Vĩnh Công, các tướng sĩ tụ tập ở Trang Hoa Đào, hành lễ và tổ chức các cuộc tưởng niệm đại thắng như trước. Cúng rằm tháng 8 dần trở thành truyền thống và được lưu truyền cho đến ngày nay.
Người dân địa phương tương truyền rằng, đền Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình đã nổi tiếng linh ứng từ xa xưa. Ông được coi là vị thần tối cao của vùng đất Lạc Việt. Một lễ hội vào tháng 8 âm lịch tại một ngôi chùa quy tụ mọi người dân Việt Nam để chiêm bái và cầu nguyện. Tục ngữ dân gian: “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ” chính là để chỉ Hội tháng 8 ở đền Đồng Bằng.
Lịch sử Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình
Đền Đồng Bằng tọa lạc ở đất An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày nay, xưa được gọi là hoa đào trang ở Sơn Nam trấn, sau gọi là trang hồng đào, từ đời Lý về sau gọi là Trang Đào Hồng. Đền Đồng Bằng là nơi thờ Đại vương Bát Hải Động Đình, người có công lớn trong việc bình Thục giữ nước, chiêu dân khai khẩn lập làng lập ấp từ thuở sơ khai.
Đền có sắc phong Tam Kỳ Linh Ứng Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần. Từ cuối thế kỷ 13, đây còn là nơi tưởng nhớ đại vương Trần Quốc Tuấn và các danh tướng của hoàng tộc, những người đã có công lớn ba lần phá quân Nguyên Mông và lập nên 8 trang Đào Đồng xưa.
Đền Đồng Bằng ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ nằm trong khung cảnh sông nước hữu tình của đất Đa Dực xưa, đến thời Tiền Lê, đền được xây dựng và mở rộng thành 5 tòa đại bái và 4 bàn thờ công đồng khang trang, Hoành tráng và được liệt kê vào tứ cố cảnh là Đào Đồng, Lộng Khê, Tô đê, A Sào.
Đầu thế kỷ 13, khi giặc Nguyên Mông xâm lược phương Nam, Đào Động là nơi các thủy binh nhà Trần đóng quân và rèn luyện. Trước khi vào trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng vào đền dâng hương trước cửa đền để cầu nguyện âm phù. Sau ba lần thắng lớn, nhà Trần đã đầu tư công sức, tiền của vào việc trang hoàng cửa đền. Phò mã Nguyễn Chí Nghĩa và tướng quân Phạm Ngũ Lão ngắm cảnh đền đã làm bài thơ hiện còn lưu giữ trong một bản thảo khác trên bức cuốn thư trên cung Đệ nhị.
Kiến trúc Đền Đồng Bằng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình
Nói về kiến trúc, đền Đồng Bằng là ngôi đền lớn nhất và nằm ở vị trí trung tâm trong toàn bộ Khu di tích An Lễ. Sử sách ghi lại trước năm 1945, vùng đất An Lễ hiện nay có hàng chục di tích của các Vua Hùng và Hai Bà Trưng, nhưng tiêu biểu nhất là Miếu Vĩnh Công và đền thờ các quan lớn nhà ngài.
Đặc biệt về đền Đồng Bằng thờ Vĩnh Công Đại Vương tức Đức vua Bát Hải là một công trình kiến trúc đồ sộ, toàn bộ khu đền rộng lớn với tần tầng lớp lớp, có 13 tòa, 66 gian nối tiếp nhau khép kín. Các mảng kiến trúc mềm mại, hài hòa với các mảng chạm khắc phức tạp, hàng trăm câu đối, cuốn thư hùng, hoành phi câu đối với các đề tài tứ quý, tứ quý, tứ linh, thiên thực, thần linh giàu trí tưởng tượng, nhưng cũng rất sống động và đời thường.
Đối với tín đồ đền Đồng Bằng là ngôi chùa linh thiêng nhất mà họ có thể lui tới, còn đối với du khách nam nữ thanh niên, đền Đồng Bằng như một viên ngọc quý giữa vùng quê Thái Bình trù phú. Cổng đền là một công trình kiến trúc nguy nga theo kiểu vọng lâu 3 gian thời Nguyễn.
Bước qua cổng tam quan, du khách bước vào sân chính của đền trong, nơi cử hành đại lễ tế công đồng trong những ngày quan trọng và lễ tế của lễ hội xưa.
Đền Đồng bằng là một kiến trúc hình chữ hậu đinh gồm 5 gian thờ chính. Ấn tượng đầu tiên khi bước vào đền là những bức chạm khắc ở cung đệ tứ, các bô lão nói rằng chúng có vẻ đẹp hoàn hảo, bởi những người thợ không phải làm việc theo hợp đồng, họ chỉ đang sử dụng tài năng của mình để hoàn thành chúng bằng hết cả tấm lòng. Sau đó là cung Đệ tam, trong khi cung Đệ tứ đồ sộ và đầy những đồ trang trí phong phú, thì cung đệ tam giống như sự thành hư thoát tục .
Và nếu cung đệ tam đơn giản và nội tâm, thì cung đệ nhị dường như mở ra những cảnh quan mới. Sau cung Đệ nhị là cung đệ nhất thờ vua Bát Hải, theo sử sách xưa, cung ược xây dựng vào thời nhà Lý, thời mà Đào Động được cho là đứng đầu trong Tứ Cổ Cảnh. Cung Cấm và Điện thờ chung là nơi thờ cúng linh thiêng nhất trong đền, được gọi là Cấm cung vì phong tục xưa, không phải ai cũng được vào.
Đền Đồng Bằng Cấm Cung được coi là linh thiêng vì hội đủ ngũ hành “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ”. Chính giữa trung tâm cung cấm là miệng giếng cổ. Tương truyền, đây chính là chiếc giếng nơi Vĩnh Công ẩn thân ngày sinh của mình. Đối với những người có tín ngưỡng, một ít nước từ giếng này rất quý giá, nó có sức mạnh xua tan những điều xui xẻo và mang lại may mắn.
Mỗi người đến dự lễ đều có tâm trạng riêng, cảm xúc riêng nhưng có lẽ đều gặp nhau ở điểm chung, đó là lòng tôn kính vua cha.
Vẻ đẹp của ngôi đền, ngoài vẻ đẹp của kiến trúc, còn là những nét xưa cũ trong những nét chạm khắc tinh xảo cổ xưa, chúng ta còn cảm nhận được vẻ đẹp thần thánh và tỏa sáng nhiều lần qua lăng kính của khách viếng hương. Đó cũng là nét đẹp của văn hóa Việt Nam biến chiều sâu của lịch sử thành những khát vọng và ước nguyện muôn đời.
Lễ hội Đền Vua Cha Bát Hải
Ngày hóa của Vĩnh Công là vào 22 tháng 8, bởi vậy dân gian mới lưu truyền đến ngày nay câu “Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ” để nói về Hội tháng 8 ở đền Đồng Bằng thờ vị Vua Cha Thủy Phủ mang tên Vĩnh Công Đại Vương.
Đã thành thông lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng diễn ra vào khoảng tuần lễ từ ngày 20 đến 26 tháng 8 âm lịch, thu hút đông đảo đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Phần hội gồm các nghi thức tế thần, rước kiệu, dâng hương, diễn lại tích xưa vua cha đi đánh giặc một cách trang nghiêm, thành kính. Ngoài ra, phần hội còn diễn ra khá sôi nổi với các trò chơi dân gian như hát văn hầu bóng, kéo co, chọi gà, cờ tướng, đấu vật…, đặc sắc nhất là trò đua thuyền.
Hội đua thuyền thôn Đào Động trước đây nổi tiếng khắp vùng nay được khôi phục và thường kéo dài trong 5 ngày. Theo thông lệ, vào sáng ngày 21 tháng 8, một cuộc rước long trọng và trang nghiêm được thực hiện để rước Vua Cha từ đền ra đình Bơi để mở hội đua thuyền. Trong các ngày 22, 23 và 24-8, lễ hội đua thuyền diễn ra trong không khí thi đua sôi nổi, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham gia. Lễ hội đua thuyền là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian bao hàm các giá trị truyền thống tốt đẹp của một dân tộc, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc, ý thức cộng đồng, các giá trị văn hóa, thể thao và giải trí. Hội đua Thuyền còn tồn tại đến ngày nay để nhắc nhở con cháu về công lao to lớn của Hưng Đạo Đại Vương và các tướng lĩnh nhà Trần trong chiến thắng lịch sử vĩ đại Bạch Đằng.
Ngày 26 tháng 8 là ngày giã hội, gọi vua cha và các vị thần trở lại đền thờ. Lễ hội đền Đồng Bằng kết thúc trong sự phấn khởi và ước vọng cho một năm tràn đầy may mắn.
Lễ hội Đền Đồng Bằng bảo tồn nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để bày tỏ lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và lòng ngưỡng mộ, kính trọng của nhân dân với Vua Cha Bát Hải Động Đình Vương và Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Lễ hội được coi là nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại, là một trong những môi trường giáo dục văn hóa truyền thống cho thế hệ trẻ. Đồng thời, Lễ hội đền Đồng Bằng còn là nơi thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh của nhân dân, nơi đây được coi là một trong những trung tâm tín ngưỡng quan trọng nhất của tứ phủ ở nước ta. Hàng năm người dân và du khách thập phương đổ về đây mang theo những ước nguyện, cầu nguyện cho một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hát văn vua cha bát hải
Nói đến hát văn Vua Cha Bát Hải Động Đình chúng tôi xin đưa lên 2 bản hát chầu văn Đức Vua cha Bát Hải được chúng tôi sưu tầm để gửi đến các bạn.
Bản văn vua cha Bát Hải số 1
Đệ tử vọng bái khấu đầu
Thần tiến văn chầu cửa phủ Thái Ninh
Phủ Thái Ninh trong miền Phụ Dực
Danh tiếng đồn náo nức gần xa
Động Đình sông vắng ngã ba
Tối linh thượng đẳng trên toà uy nghi
Đôi bên ngựa phục voi quỳ
Phượng thì đua múa, hạc thì chầu lên
Trước án tiền nức mùi hương xạ
Trên đền hương khói toả vân long
Chữ rằng: “Vạn tuế thánh cung”
Quy mô lồng lộng, cửa rồng nguya nga
Dưới sông lác đác chèo qua
Buồm giương thuận gió ắt là Tiêu Tương
Cảnh lạ nhường cây chầu uốn éo
Lá dầm khê yểu điệu màu xanh
Bốn bề sơn thuỷ bao quanh
Gần xa đều đến phục tình làm tôi
Địa linh chiếm lấy một ngôi
Thiên hạ tái hồi về phục Đại Vương
Minh đường sơn thoải đại giang
Đôi bên huyền vũ cảnh càng thanh tao
Kẻ anh hào gần xa đều đến
Cầu việc gì ứng nghiệm linh thông
Có khi hoá vũ hành phong
Phép thiêng rẽ nước giao long đi về
Dưới Thuỷ Tề công đồng nghị luận
Trên Thượng Thiên mở trận mưa sa
Trần gian ai dễ biết thay
Độ cốt độ thày lại được ăn công
Thánh độ cho khắp thanh đồng
Có lòng thành kính ban công lộc nhiều
Bách quan văn vũ thần liêu
Khâm sai các bộ dập dìu đai cân
Đứng chật sân y quan lễ nhạc
Tửu tam tuần tiến bước thung dung
Tuần sơ tuần á tuần chung
Nội thông ngoại dẫn đôi lòng khoan thai
Lễ thưởng tiến cống đồ tươi
Sắc phong thượng đẳng muôn đời truyền lai
Hạ tuần tháng tám đôi hai
Trải qua xem rạng đua tài chèo bơi
Mở hò reo dưới sông lừng lẫy
Trên xướng ca đàn gẩy xênh trong
Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
Thảnh thơi thánh vực, ruổi rong thiên đàng
Trống vang lừng chiêng vàng điểm đót
Giọt đồng hồ thánh thót ngân nga
Dưới sông lừng lẫy kêu loa
Thượng từ đò Tị hạ là bến Bông
Đôi bên sông đỏ đào rực rỡ
Nhác trông lên đã ngỡ động tiên
Cõi trần đâu dễ mấy hơn
Thơm danh nức tiếng phủ miền Thái Ninh
Trên Thiên Đình khâm thừa đế mệnh
Dưới Việt Nam quốc chính hộ dân
Thần thông biến hoá muôn phần
Bùa thiêng phép diệu xa gần sợ uy
Mấy huyền vi thiên trường địa cửu
Phù hộ cho hoà hảo bách niên
Sinh ra con phượng cháu tiên
Lưu ân giáng phúc thiên niên thọ trường.
Bản văn vua cha Bát Hải số 2
Nhang thành kính đôi lời giãi tỏ
Trước điện tiền lễ độ phục uy
Thoải đình Thánh Đế uy nghi
Quyền cai chính ngự ngọc trì bể Đông
Truyền thừa mệnh Long Cung Bát Hải
Thái Ninh từ chính đại quang minh
Ấy nơi tụ khí chung linh
Quyền cai thống lĩnh chư dinh thoải tề
Các cửa bể cửa sông Nam quốc
Một mối thông sau trước một nơi
Quy về long mạch chính ngôi
Đền Vua Bát Hải ở nơi Động Đình
Tòa thoải quốc nghê kình cai giữ
Tướng tam đầu cửu vĩ đôi bên
Long xà rẽ nước hiện lên
Thỉnh mời chư Thánh ngự đền Thủy Cung
Mở hội yến tòa trong chính điện
Ra lệnh truyền thủy tộc chư dinh
Bài sai các tướng thủy đình
Trấn an cửa bể giữ lành giúp dân
Thu bão táp ân cần tế độ
Dẹp an loài thủy quái yêu ma
Độ cho phong thuận vũ hòa
Dân an quốc thái nhà nhà an vui
Đội ơn đức muôn đời hằng nhớ
Gốc Lạc Hồng muôn thủa không phai
Hương thơm dâng trước đan đài
Vua cha ban phúc ban tài ban ân
Độ cho sở nguyện tòng tâm
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường
Xem Thêm:
Bài viết liên quan: